- Lễ Cáo yết (còn gọi là lễ Cáo tế): Là lễ trình với Thần linh về việc dân làng sẽ tổ chức Tế lễ sự thần. Thường vào buổi chiều hoặc buổi đêm trước ngày Chính tế. Lễ thường chỉ có 1 tuần hương, 1 tuần rượu và sau đó là tuyên Chúc văn nói rõ lý do của cuộc Đại tế.
- Lễ Chính tế: Lễ tế vào ngày chính, ngày của công việc sự thần. Để có một cuộc tế, mỗi năm dân làng phải họp công đồng một ngày để bầu ra một ban tế, nhiệm kỳ là một năm, với các chức danh được bầu chọn.
Các đồ tự khí: 2 cái Đẳng gỗ, đặt hai bên Đông xướng - Tây xướng có lọng che. Đẳng gỗ bên Đông đặt cây đèn, bình hương, bình hoa và Tam sơn đặt 3 đài rượu gọi là bàn Đông bình. Quan viên Đông xướng đứng xướng tế ở đây. Trống hiệu đặt bên dưới bàn Đông bình. Trên cái Đẳng gỗ bên Tây đặt cây đèn hoặc nến, bình hoa, đĩa trầu cau gọi là bàn Tây quả. Quan viên Tây xướng đứng ở đây. Chiêng hiệu đặt bên Tây, trống đặt bên Đông. Hai cây đèn hoặc nến dùng để dẫn khi lên hương, lên rượu.
Cây quán tẩy: Là cái giá để đựng chậu nước cho Chủ tế, Bồi tế, Chấp sự rửa tay sạch sẽ khi vào hành tế.
Lỗ bộ (chấp kích, bát bửu): trưng bày hai bên Đông - Tây xướng cho uy nghi.
Bảng chúc: Mộc bảng có dạng hình chữ nhật nằm ngang, đặt đứng nghiêng, trên cái giá đỡ là thân hai con ly đứng hai bên, mặt bảng ngửa về phía sau. Ngày tế lễ, bài văn chúc dán lên bảng chúc. Còn có một miếng vải thêu hình hổ phù che lấy bài văn chúc, khi đọc mở ra, thể hiện sự tôn kính Thần linh.
Ngoài ra còn một số đồ dùng khác như: Bốn chiếc chiếu cói mới dùng cho hành lễ, trải thành hàng dọc trước Đình đền. Chủ tế và Bồi tế thực hiện nghi lễ trên đó. Mỗi kỳ tế lại thay mới một lần cho tinh khiết.
Y phục của các quan viên tế: Thường dùng trong vài hoặc 10 năm thay mới 1 lần cho sang trọng. Chủ tế: Riêng một màu, thường là màu đỏ, có cân đai, bối tử. Các viên Bồi tế: Dùng chung một màu cho mũ áo, thường là màu tím. Các Chấp sự: Dùng chung một màu, thường là màu xanh lam. Tất cả đều đội mũ kiểu phốc đầu, áo tay thụng, quần màu trắng kiểu ống sớ, chân đi hia. Các loại quần áo này dùng xong đóng hòm, quản ở di tích.
Chiếu tế: Khi vào cuộc tế, trải 4 chiếc chiếu theo hàng dọc trước Đền đình: Chiếu thứ nhất: Gọi là chiếu Nghinh thần dành riêng chỉ khi làm lễ nghinh thần, đọc chúc, vị chủ lễ đứng hiến lễ ở đây. Chiếu thứ 2: Gọi là chiếu Thụ tộ tức là nơi Chủ tế lên hưởng lộc của Thần ban cho (thụ rượu thịt, ăn miếng trầu cau đã tế lễ). Chiếu thứ 3: Gọi là chiếu Phục vị hay chiếu Tế chủ là chiếu giành riêng cho Chủ tế trở về (điểm xuất phát). Chiếu thứ tư: Gọi là chiếu Bồi tế, chiếu giành riêng cho các vị Bồi tế hành lễ (các chiếu này chỉ dùng 1 lần nên đều là đồ mới tinh khiết).
Âm nhạc dùng trong lễ tế: Âm nhạc tế được dùng theo một quy chế nhất định, có thể thức với thiết chế Lên âm, Xuống nhạc. Lên là khi dâng hương, hiến lễ. Xuống là trở về vị trí khi công việc hoàn thành. Các loại âm nhạc dùng có tính chất lễ nghi, thờ cúng trong việc tế lễ nơi đền miếu đều thuộc phạm trù nhạc lễ.
Nhạc cụ: Bộ gõ gồm các loại trống, chiêng, Sênh tiền (3 loại). Sênh tiền dùng trong lễ tế (cả lễ rước kiệu) là để điểm nhịp trong hành lễ, múa theo vị Chủ tế hoặc các Chấp sự lên hương, lên rượu. Bộ hơi gồm Kèn và sáo. Nhạc gồm bài Lưu thuỷ dùng khi tiến tước, gọi là Lên âm, bài Ngũ đối dùng khi tiến tước hoàn thành, gọi là Xuống nhạc.
IV. THÀNH PHẦN BAN TẾ:
Đội tế là một nhóm gồm khoảng 20 người. Thông thường Tế thần là đàn ông (gọi là đội Tế ông), đàn bà chỉ tế Mẫu, nữ Thần (gọi là đội Tế bà). Đội tế gồm:
Ngoài ra còn có phường Bát âm, đội múa…
Khởi sự tế, phải chuẩn bị đồ Tế, Hương án. Thắp hương xong, một người đánh lên 3 hồi trống cái, trống trước, chiêng sau. Thường thì người Đông xướng xướng hoặc người Đông xướng, người Tây xướng thay nhau xướng (nếu có một người thì xướng từ đầu đến cuối). Xướng lần lượt (phần chữ đậm). Lễ Tế thần gồm 36 bước như sau:
Xuất Á là đi hình chữ (亞): Khi trong chiếu bước ra thì đi ngang sang phải (phía Đông) và tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền; quan cửa thì lại đi ngang sang trái (phía Tây) rồi tiến thẳng vào Hậu cung. Hoặc từ giữa chiếu đi thẳng sang phải (phía Đông) và rồi rẽ trái tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền… Từ trong Đình đền quay lại rồi mới đi thẳng vào chiếu thứ nhất theo lối Nhập Ất (乙).
Trong khi ấy các Chấp sự 2 bên bàn Đông - Tây cử hành Dâng hương vào Thượng điện theo nhịp trống khẩu điều hành và tấu bài nhạc lễ Lưu thuỷ (gọi là Lên âm). Khi đoàn Chấp sự hoàn thành việc dâng hương trở về bàn của mình. (tiếp là 4 lễ nghinh Thần)
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
- Đông xướng - xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
- Đông xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy.
- Đông xướng - xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
- Đông xướng - xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế.
- Đông xướng - xướng: Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quí): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót riệu.
- Đông xướng - xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài riệu, bình riệu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài riệu, bình riệu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
- Đông xướng - xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót riệu vào 2 chén.
- Đông xướng - xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
- Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
- Đông xướng - xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
- Đông xướng - xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài riệu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước riệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến ban thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
- Đông xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
- Đông xướng - xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
- Đông xướng - xướng: Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quí): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót riệu.
- Đông xướng - xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài riệu, bình riệu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài riệu, bình riệu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
- Đông xướng - xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót riệu vào 2 chén.
- Đông xướng - xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
- Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
- Đông xướng - xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
- Đông xướng - xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài riệu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước riệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến ban thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
- Đông xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
- Đông xướng - xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
- Đông xướng - xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
- Tây xướng - xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
Link nội dung: https://ohanapreschool.edu.vn/nghi-thuc-te-le-thanh-hoang-a19488.html